Luận về chữ Hữu của
nhà Phật
Jenny
Hoang
10-04-01
Một bạn tôi gủi cho 3 chữ “Hữu nhu
Vân”từ một bức hoành phi, và nhờ phiên giảng. Tôi không biết nội dung cả bức
hoành phi ra sao, dùng vào việc gì và nguời viết có phải là nguời sống theo giáo
lý Phật không? Tuy nhiên tôi hiểu triết lý Phật Giáo Đại Thừa thì tôi cứ xin
giảng theo triết lý đó.
Vấn đề đuợc đặt ra
là:
Một vài chữ ngắn không đầu không đuôi
lại không cho biết xuất xứ, không biết nguời viết và lập truờng của nguời viết,
giảng ra rất khó. Tuy nhiên khi nói đến chữ “hữu” thì nguời ta không thể không
nghi ngay đến Phật Giáo. Lại nữa giáo lý Đại Thừa khẳng định Duyên sanh nhu
Huyễn thì lại hợp với cụm từ “nhu Vân” lắm. Vì thế cho nên tôi mạo muội khai
triển cho rộng thêm ý nghia của câu : Hữu nhu Vân” theo ý của Tâm Kinh Bát Nhã
Chữ Mây thì dễ rồi, thông thuờng nguời
ta nhắc đến “mây nổi” tức phù vân để chỉ tính cách vô thuờng của nó. Mây, hay
bất cứ sự sự, vật vật gì, vô hình hay hữu hình, vô tình hay hữu tình, hoặc ở
trong thân ta, hoặc ở trong tâm ta. hoặc ở ngoài ta, ở xa, ở gần, hoặc ở trong
nguời khác, hoặc ở ngoài nguời hay vật khác, cung đều do nhiều duyên sinh ra và
tuỳ theo những nhân duyên ấy mà thành ra quả. Sau phần định nghia của chữ Hữu,
chúng ta sẽ tham khảo về những đặc tính của “phù vân”, nói chung là các hiện
tuợng trong vụ trụ luôn luôn biến hiện thêm bớt trong thời gian và không
gian.
Định nghia chữ
Hữu.
Chữ hữu này giống nhu chữ hữu trong “
hiện hữu” tựa nhu khi ta nói “có mặt”, nhung lại thay đổi, biến dạng và không có
tự tánh nên “có mặt” mà cung nhu “không có mặt.” Do đó có mà cung
nhu không mà thôi. Ta sẽ có dịp nói đến cái “Vô” này
sau.
Chữ Hữu này không nên nghi đến hữu là tay
phải, hay hữu là bạn bè, hay nhu trong cố- hữu, hữu- xạ- tự- nhiên- huong, chữ
hữu cuối cùng này cung có nghia là có nhung mà hạn hẹp là có nhu sở hữu thôi.
Lại nữa, chúng ta cung không nên nhầm cái có này với “vật chất’” hay nhu “của
cải”, ruộng đất, tiền , nữ trang, thậm chí con cái, hay thẻ tuỳ thân, hay giấy
thông hành v.v...tức cung là cái vật sở hữu do mình làm ra hay sinh ra, ít nhiều gì
gói gém trong danh từ “của ta”. Cái của ta này trong giáo lý Phật rộng lớn lắm,
nó miên man vô cùng, và phần tâm lý nằm trọn trong đó. Cái tâm của ta này
mới là cái thực sự gây phiền não cho ta . Hiện tuợng vạn pháp thì vô tình nhung
cái tâm chủ quan của ta thì khoác lên nó đủ thứ, và móc nối tâm ấy với đủ thứ
khác và tâm khác. Chắc các bạn còn nhớ câu chuyện “ Cờ bay hay gió bay”? của nhà
thiền thủa xua ? Tôi xin phép nhắc lại một cách giản dị hon ở đây cho bạn nào
muốn nghe một lần nữa.
Có một cột cờ cao giữa sân, cờ bay phất
phới.
Thầy hỏi trò: “ Cái gì
bay”
Trò đáp: “Dạ cờ
bay”
Thầy bảo: “Không
phải”
Trò thua: “Dạ thua thầy gió
bay”
Thầy cuời: :” Nghe đây : Tâm
bay!!”
Tôi thích câu chuyện này lắm vì nó đã
đánh dấu một buớc quẹo rõ ràng và sáng trong trên con đuờng học Đạo của tôi. Từ
ngày đó tôi thiền quán nhẹ nhàng dễ dãi, lại có kết quả ngon lành hon truớc chỉ
vì tôi đã cho cái óc hối hả, muốn tới đích của tôi nghỉ luôn, và để cho cái Tâm
của tôi... học.
Nói tóm lại Hữu là vạn pháp, ở ngoài thì
có vu trụ bao la, núi sông cây cỏ, thuợng cầm hạ thú, sở hữu, năng hữu từ toà
nhà 25 tầng cho đến sợi tóc trên đầu, ở trong thì từ 6 thức nhìn, nghe, ngửi nếm
cảm thọ, kiến thức, tu tuởng dù cao siêu đến đâu cung đều là Hữu. Ngoại Giới và
Nội Tâm là môi truờng của Hữu, Hữu
vừa là sự có mặt của vạn pháp vừa chính là vạn pháp ấy.
Sở di vì đâu mà ta nói đuợc Hữu nhu Vân
hay Vạn pháp nhu Phù vân ? Chúng ta đã biết tính cách của Mây là không nhu nhất,
thoạt tiên chỉ là nuớc, nắng lên thành mây, gặp gió thì tan hợp, hợp tan không
chừng, có khí lạnh lại thành nuớc, vậy mây là nuớc, là nắng, là gió, là khí
lạnh, cái gì là thật Mây?
Hữu cung có thể đuợc phân tích nhu vậy.
Những sự sự vật vật kể trên mà ta gọi là VạnPháp sẽ luân hồi trong vô thuờng và
cho ta thấy chúng mang 2 đặc tính quan trọng nhất là biến dạng và
không có tự tánh. Hai đặc
tính này sở di có, là vì nhờ nhiều
duyên họp nhau l mà sanh ra.
Thay đổi là vì duyên
sanh. Sự thay đổi này mang nhiều mầu sắc, lâu
mau, nhiều ít không chừng, tuỳ theo duyên. Sông núi, đại duong, nhiểu tu tuởng,
nhiều tình cảm lúc mới suy nghi thấy duờng nhu bất biến, nhung đó chỉ vì một
kiếp ta quá chóng qua. Hằng hà sa số sao trên Ngân hà, hay một bức tranh quý độc
nhất trên đời cung theo thời gian mà thay đổi về dạng, về tính, về phẩm, về
luợng. Nhờ có thay đổi mà thế gian này mới tồn tại đuợc nhu ngày
nay.
Nguời xua có câu : bạn không thể nào rửa
chân hai lần trên một con sông. Vì khi trở lại thì nuớc cu đã chảy đi rồi. Nhung cung nhờ nuớc sông luôn trôi
chảy mà con Sông sống còn đuợc với mọi thiên tai nhu hạn hán và các côn trùng và
vi trùng duới nuớc. Có bạn viết cho
tôi, nhắc đến hai chữ bất biến trong tình yêu, và công đức của mẹ cha, bạn ấy
viết rằng: “ Tổ tiên của chúng ta đã chết, nhung di sản tinh thần của *Công
nhu Son, Đức nhu Hải* vẫn tồn tại mãi mãi cho các đời sau kế thừa và phát
huy theo thời đại mới”. Tôi mạn phép đã trả lời nguời bạn của chúng ta
rằng:
“Tình yêu mẹ tôi cho tôi lúc nguời còn
sống ví nhu một trái soài đi. Bây giờ nguời mất rồi,
soài không còn mà nguời cho soài cung
không còn. Nhung tình mẹ cho tôi nhu thế nào, tôi còn nhớ, đó là điểm thứ nhất,
Ký ức và kinh nghiệm trực tiếp về tình yêu đó còn chi phối tôi cho đến hết đời,
luân chuyển ảnh huởng đến đời con cháu tôi. một cách riêng. Đó là điểm thứ
hai.
Về điểm thứ nhất, khi mẹ tôi mất thì
trái soài đã mất đi hai duyên lớn, một là mẹ tôi ,hai là thời gian và không gian
làm nên thời điểm đó. Tình yêu mẹ tôi cho tôi chỉ còn trong tôi nhu một kỷ niệm
đến từ ký ức tôi. Nó trở thành tôi và lệ thuộc vào những co duyên mới khác mà
tôi hoặc ý thức hay vô ý thức sẽ tạo ra, để sinh sôi nẩy nở hay tàn lụi
đi.
Tôi có kỷ niệm và kinh nghiệm sống về
tinh yêu thuong của mẹ, tôi muốn nuôi duỡng nó cách nào trong tôi là tuỳ ở tôi.
Tình yêu đó nay đã biến dạng nhung may mắn đã thở thành tâm hiền của tôi. Nhờ
học đạo mà tôi biết dùng những cái “di sản” đó. Bạn tôi đã lẫn lộn nhân với
quả. Công đức của tổ tiên là nhân,
vào đến con cháu là quả, quả thêm duyên vào lại thành ra nhân khác để cho quả
đời sau. Khi tổ tiên ta mất đi, ta nhận những di sản đó là của ta, và ta phụ
công lực ta vào đó, nó trở thành của ta, duyên chính của nó nay là “ta” vì ta là
nguời sẽ tạo nhân tiếp hiện cần thiết để thành quả cho con cháu ta. Chứng cớ là
có nền văn hoá lớn đã tàn theo thời gian, nhu La Mã, sức mạnh vu bão một thời
của dân Mông cổ đã mất, quân phiệt không thành công và độc tài phát xít phải sụp
đổ. Trái lại tình yêu, tình bạn, lòng hiếu, công đức là những kinh nghiệm hạnh
phúc trong nhân văn, chúng là thức ăn tinh thần và tình cảm nuôi duỡng con nguời
nên ai ai cung nỗ lực tạo duyên cho chúng, nên nó tồn tại mãi. Tồn tại mà
biến đổi theo thời gian và địa điểm không ngừng nhu một hiện tuợng vật lý hay
tâm lý.
Điểm thứ hai tôi muốn nói đén là sự tồn tại này,
sự tham gia tích cực của nguời đến sau trong việc bảo tồn di sản tổ tiên. Nếu
không thì sự có mặt của chúng ta vô nghia. Chúng ta tạo duyên khi nhận cái di
sản ấy và tiếp sức theo, để tiếp hiện nó, có thể làm phát triển nó nhiều lần
hon. Đó là trách nhiệm trong sự lựa
chọn tự do của mỗi nguời, trách nhiệm đối với tổ tiên, đoàn thể, dân tộc và loài
nguời. Di sản đó đã thay đổi biến
hiện mỗi lần trao tay.
Khi tôi xem Thế Vận Hội về môn chạy đua
tiếp sức tôi chứng nghiệm đuợc điều đó rõ ràng. Một nguời chạy tới rồi đua ống
thu cho một nguời khác, khi nguời kia cầm lấy ống thu đó thì rõ ràng đã có một
thay đổi xẩy ra: trách nhiệm chủ động và thành quả đã thay đổi theo mức tốc độ
của nguời thứ hai này. Còn cái ống quyển đó thì có thay đổi không? xin thua rằng
có. Mục đích của cái ống là đến đích truớc những cái khác. Mỗi khi cái ống
chuyền tay, là nó tuỳ thuộc năng tính và mục đích thể hiện vào tốc độ của nguời
cầm nó. Nói cách khác, duyên đã thay đổi thì hiện tuợng và quả thay đổi theo.
Công đức của tổ tiên có thể nói là còn,
nhung không còn nhu một cái vật bất biến ta cất vào trong tủ đuợc. Thứ nhất là
vì ngay từ đầu nó đã không có một thực thể nhất định, chỉ nhờ duyên mà thành;
chính tôi là một duyên phụ quan trọng bậc nhất của tình mẹ con này. Sau khi mẹ
tôi mất đi thì duyên chính mất theo, tôi nay trở thành duyên chính cho tình cảm
của tôi trao các con tôi và trong ký ức tôi, tình yêu của mẹ ngày xua đã biến
năng trở thành một động lực cho tôi thể hiện hay tiếp hiện tình yêu đó qua các
con tôi nói riêng và cho tất cả nói chung
Khi tôi trao tình thuong cho con tôi, có
thể nó đã thành một quả chuối. Chuối là quả mới cho con tôi nhu là soài truớc là quả đã
cho tôi. Chuối không phải là soài, nhung soài đã ở trong chuối. Nếu không có
soài là tình thuong của mẹ tôi cho tôi, thì tôi không có chuối là tình thuong
tôi đang cho các con tôi đây. Trong môt dịp khác tôi mong đuợc nói thêm vể mối
liên hệ theo đuờng mắt luới này. Chúng ta tất cả là họ hàng với nhau. Cái này có
là vì cái kia có.” Giảng ra thật là khó, hèn chi các bực tiền bối không nói gì
cả mà chỉ mỉm miệng cuời, tôi chót lên tíêng thành sẽ mắc tội lắm
lời.
Nay trở lại một đặc tính quan trọng nữa
của vô thuờng, có lẽ là đặc tính quan trọng hon cả.
Không có tự tính cung là vì duyên
sanh- Vì sanh ra
bởi nhiều duyên họp lại nhu a+b+c+d
vân vân...đến khi a đi mất thì b+c+d bây giờ là bcd chứ không thể còn là abcd
đuợc.. Rồi đến khi lại thêm duyên mới sanh ra b+c+d+e thì lại thành ra dạng khác
bcde rồi. Ta lấy một thí dụ khác: Nhu hôm nay nấu một nồi canh cá chẳng hạn,
cung công thức đó, cung thứ cá đó rau đó, nhung nồi cá hôm nay không thể nào là
(=) nồi cá hôm qua đuợc, gọi là giống thì có thể, còn “y nhu là” thì một ngàn
lần không. Chữ là (=)này phải hiểu là y trang 100%. Trên đây là nói về duyên
sanh thì nhu thế, còn về tự tánh thì
cứ tiếp tục suy cứu theo duyên sanh sẽ thấy.
Nói về tự tính thì ta lại lấy thí dụ nồi
canh cá lần nữa. Ta tạm gọi cái đó là canh cá. Thực ra có nhiều thứ khác ở trong
đó : nào lửa, nào nuớc, nào mắm muối, tiêu, dầu... nên gọi là cá chua cho nó gọn
mà thôi thực tính biết gọi nó là gì đây: là cả một hầm- bà- làng lung tung nhiều
lắm, có cả bà nấu bếp ở trong đó, có cả ông đánh cá và bà trồng rau ở trong đó,
có chất mặn chất cay, có huong hành huong ngò nữa chứ ! Suy mà thì thấy tất cả
các chuyện khác trong thiên hạ cung đều nhu vậy, nghia là không có một cái gì tự
nó sinh ra nó, với tên tuổi chính xác, nghia là với một thực thể nhất định. Cái
danh hiệu ta gọi nó là ta đặt ra cho tiện và đồng ý nhau dùng nó, để dễ sống
chung hoà bình mà thôi.
Kết
luận
Về Hữu